Những thách thức của giáo dục thế kỷ 21: Cách nhìn về chất lượng giáo dục

“Chất lượng giáo dục” là một trong số những vấn đề được đặc biệt quan tâm trong bối cảnh hiện nay, nhưng cũng là vấn đề khó nắm bắt và gây nhiều tranh cãi nhất về giáo dục (GD). Không có một trả lời đơn giản nào cho câu hỏi: “ý nghĩa then chốt của chất lượng là gì?”. Từ lâu, những nhà giáo dục đã thừa nhận có một số khác biệt trong quan niệm, do đó đã dẫn đến ý tưởng: cách nhìn về chất lượng.
Những thay đổi đang diễn ra

Cách nhìn về chất lượng phụ thuộc rất nhiều vào những sứ mạng của hệ thống giáo dục: GD, đào tạo, hội nhập xã hội, chuẩn bị thành người lao động và người công nhân. Tuy nhiên, với những thay đổi lớn lao đang xảy ra – đặc biệt về mặt lịch sử, ý thức hệ và chính trị – những sứ mạng bổ sung đang được chờ đợi ở thành quả của hệ thống giáo dục, do đó làm thay đổi cách nhìn về chất lượng. Bốn xu hướng lớn về sự phù hợp với chủ đề này được giải quyết với những yếu tố sau:

Sự toàn cầu hoá các xã hội

Điều này có nghĩa chất lượng GD không thể được xác định chỉ trong giới hạn những đường biên của những hệ thống riêng của nước mình về các giá trị, văn hoá, truyền thống và điều chỉnh xã hội. Những nhu cầu GD cần được tính đến trong quan niệm về “ngôi làng toàn cầu” và những hệ thống khác về giá trị, những văn hoá khác, những truyền thống khác. Thách thức rất lớn lao: làm thế nào để hoà giải sự xung đột – thường là sự cạnh tranh – giữa những hệ thống giá trị, trong khi phải tôn trọng sự chia sẻ rộng rãi những quan niệm về bảo vệ những đặc thù và bản sắc của những nhóm người hoặc dân tộc?

Khi một số chính phủ quyết định lựa chọn chính sách vứt bỏ giá trị của những người khác, thì có phải đó sẽ là một xu hướng nổi trội của thế kỷ 21? Sự toàn cầu hoá các xã hội đòi hỏi phải chia sẻ với nhau một hệ thống quốc tế về giá trị: phải tính đến những bản sắc văn hoá địa phương và dân tộc cũng như phải tính đến những quan niệm đạo đức phổ biến về lòng khoan dung, tình đoàn kết và quyền con người. Vai trò của GD là phải tránh và chống lại một hệ thống giá trị, được sinh ra từ những hoạt động của các xã hội thị trường hoặc từ một văn hoá nổi trội, đơn phương vạch ra tương lai của xã hội chúng ta. Như vậy, thách thức đối với những người chủ trương phát triển GD là phải thúc đẩy sự đa dạng của văn hoá với một cốt lõi chung, một kho tàng những lý tưởng có tính phổ biến và một nền tảng những giá trị cốt lõi chung như là sự tôn trọng quyền và tư cách của con người, loại bỏ bạo lực, tình đoàn kết nhân loại, bảo vệ môi trường; sự khoan dung và một văn hoá hoà bình v.v… Điều này đòi hỏi cần thay đổi những mục đích của hệ thống giáo dục và theo đó, thay đổi cách nhìn chất lượng GD.

Sự toàn cầu hóa các nền kinh tế

Cái gọi là “lý tưởng sản xuất” của GD – mà mục đích là sản xuất càng nhiều càng tốt – ngự trị trong cái nhìn về chất lượng của những nhà kinh tế cho đến đầu thập kỷ 80. Sự toàn cầu hoá những nền kinh tế có nghĩa là đặt tầm quan trọng ít hơn về nguồn tài nguyên thiên nhiên được tiềm tàng ở đâu đó mà đặt tầm quan trọng nhiều hơn về nguồn lực con người; tầm quan trọng ít hơn về kiến thức cơ sở – mặc dù còn rất cần thiết – mà nhiều hơn về kỹ năng hành vi/ thái độ; và cuối cùng, tầm quan trọng ít hơn về sự phân đoạn truyền thống của những hoạt động kinh tế: những khu vực thứ nhất (tức nông nghiệp), thứ hai (tức công nghiệp) và thứ ba (tức dịch vụ); sự phân biệt đó nay bị lu mờ đi bởi sự tích hợp ngày một tăng của những quá trình sản xuất, phân phối và cả đến tiêu thụ, trong khi cũng lúc đó, những quá trình không còn đòi hỏi phải thực hiện toàn bộ ở một địa điểm duy nhất nữa. Những nhiệm vụ của các nhà làm kế hoạch và làm chính sách GD có lẽ vẫn phải tiếp tục nhấn mạnh đến sự phát triển những kỹ năng cơ bản, nhưng những ưu tiên gắn với các kỹ năng khác nhau có thể làm thay đổi đáng kể cách nhìn về chất lượng. Sự thay đổi sẽ tác động đến chất lượng đầu vào (nhiệm vụ giao cho giáo viên cần được xác định lại), của quá trình (những nội dung gì là chất lượng của quan hệ giữa con người trong nội bộ nhà trường, nhằm khuyến khích học sinh, sinh viên tham gia xác định một quan niệm, một vai trò mà một xã hội cần có trong nền kinh tế toàn cầu hoá), của kết quả (nhất quán với sự tổ hợp những mục đích được xác định vừa có tính chất truyền thống, vừa có tính quốc gia, nhất quán với những đòi hỏi được xác định một cách quốc tế, cho bất kỳ hoàn cảnh nào) và của sự phù hợp (ít hơn với môi trường kinh tế tĩnh hoặc xác định, và nhiều hơn với môi trường kinh tế không đoán trước được).

Sự dịch chuyển trong nhiệm vụ được phân phối giữa những người chủ trì hệ thống giáo dục

Nhà nước đã là và còn tiếp tục phải là (với một số yêu cầu mở rộng) người chủ trì nổi trội về GD trong nhiều xã hội. Các chính phủ có thể ảnh hưởng đến chất lượng GD bằng nhiều con đường. Họ phải đặt ra những chuẩn mực rõ và cao cho việc hoàn thành những chủ đề cốt lõi và chính sách của họ phải ủng hộ đầu vào nhằm cải thiện kết quả của học sinh. Những đầu vào đó sẽ khác nhau từ nước này, địa phương này sang nước khác, địa phương khác, nhưng đều cần đến một sự hỗ trợ tối thiểu – nhất quán, mặc dù chính phủ có những hạn chế, ràng buộc tài chính – nhằm bảo đảm cho những chuẩn mực thích hợp của chất lượng được đáp ứng.

Tuy nhiên, một trong những xu thế lớn trong những năm gần đây là Nhà nước đang mất đi trách nhiệm có tính độc quyền về GD và vai trò của Nhà nước đối với giáo dục đang dần thay đổi. Không thể kéo dài hơn nữa tình trạng trao cho Nhà nước quyền một mình có thể xác định chất lượng và cũng như tình trạng Nhà nước có quyền hợp pháp có thể kiểm tra sự xác định chất lượng. Nếu xu hướng thách thức sự độc quyền của Nhà nước còn tồn tại đủ lâu để cải tạo hệ thống điều chỉnh xã hội, thì lý tưởng dân chủ về chất lượng cho rằng mỗi một con người cần có một cơ may của mình, có thể cần được xem lại. Theo định nghĩa truyền thống của lý tưởng dân chủ về chất lượng, thì chính Nhà nước có trách nhiệm xác định rõ đó là loại chất lượng GD nào và bảo đảm cho mỗi người có thể tiếp cận được chất lượng đó. Trong những xã hội mở, ở đó sự tham gia và dân chủ được thừa nhận một cách rộng khắp, những người chủ trương khác nhau về GD, bao gồm cả Nhà nước, đều có cống hiến cho định nghĩa chất lượng và lý tưởng dân chủ của chất lượng sẽ đòi hỏi, ví dụ, mỗi con người cần có cơ may của mình được trở thành người có nghĩa vụ và trách nhiệm xã hội. Những hệ quả của cách nhìn chất lượng GD, không cần phải nói, là muôn mầu muôn vẻ.

Sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ

Điều  này có nghĩa là trong cuộc sống hàng ngày, hệ thống tiêu thụ của chúng ta, những quan hệ với người khác, những tín ngưỡng và niềm tin của chúng ta đang đổi khác đi từng ngày. Cùng một lúc, do tác động của hệ thống siêu quyền lực về thông tin và giao lưu, một tỷ lệ có ý nghĩa của nhân loại đang nhận thức được sự cùng tồn tại của những tính đa dạng rất phong phú về các xã hội và cộng đồng, một số đang sống trong điều kiện gần như những điều kiện của các mô hình châu Âu thế kỷ 19, một số khác trong điều kiện gần như thời kỳ đầu thế kỷ 20, trong khi nhiều xã hội, cộng đồng khác lại đang tiếp cận đến những nguồn lực mới nhất và mãnh liệt nhất của những công nghệ hiện đại và đang trải nghiệm một sự bành trướng vô hạn trong các lĩnh vực về ý tưởng, hoạt động và trao đổi. Sự tổ hợp và sự song hành của những tiến hoá và tiến bộ nhanh chóng của khoa học và công nghệ, của sự phát triển có tính đại chúng và phổ cập của thông tin và giao lưu đã đem lại rất nhiều hệ quả về cách nhìn chất lượng GD.

Tiến bộ công nghệ đã dẫn đến sự phát triển những hệ thống cung cấp GD (đầu vào và quá trình) có tính đa dạng phong phú và rộng lớn. Những hệ quả của xu thế này cũng đã cảm nhận thấy rõ trên mặt chức năng xã hội của GD trong một xã hội ở đó sự phân biệt giữa thông tin và kiến thức cho đến nay đã được thừa nhận, nhưng đang bị lu mờ đi bởi vai trò ngày càng tăng của hệ thống GD không chính quy (non – formal) và phi chính quy (informal), ở đó đang sử dụng những công nghệ thông tin mới và sự giao lưu thông tin với tốc độ nhanh; điều này, may thay, sẽ đóng góp làm cho hệ thống GD đa dạng và mềm dẻo hơn. Quan trọng hơn là những khó khăn, làm sao hoà giải được sự đòi hỏi của một môi trường quy định bởi công nghệ tăng trưởng nhanh với một hệ thống GD đầy sức ỳ sẵn có và tác động của nó đối với cá nhân và xã hội là tác động dài hạn. Nếu thừa nhận là đúng, rằng GD là một quá trình diễn biến chậm với tác động có tính dài hạn lên cá nhân và xã hội, thì phải làm thế nào để GD đương đầu được với môi trường thay đổi nhanh chóng, với những tiềm năng mà xã hội được cung cấp bởi những công nghệ mới và bởi tác động quảng đại của những công nghệ đó lên những điều kiện sống và tạo ra những chờ đợi của con người đối với GD. Chúng ta đang quan sát một hiện tượng “rối” (turbulence), có thể được xác định là “rối về cấu trúc” (structural turbulence), trừ phi chúng ta có khả năng thay đổi quá trình GD và tìm ra cách tiếp cận để cải tiến sự đồng bộ tốt hơn (better synchronize) giữa những thay đổi về GD với quá trình công nghệ. Hết sức cần thiết nhắc lại lý tưởng nhân văn hoặc đạo đức của chất lượng GD nhằm nâng cao trí tuệ và nhân cách, như là lý tưởng đó vẫn kiên trì và nhằm quy định một cách tối hậu sự phát triển tương lai của các xã hội hiện đại.

Chất lượng giáo dục cần phải được hiểu thế nào?

Những thay đổi đáng kinh ngạc gần đây đang tác động đến những xã hội khác nhau với những cách thức đa dạng. Tuy nhiên, có một bộ cốt lõi chung nào đó về quan niệm có thể xem như là nhất quán trong những xu thế đã được đề cập ở trên.

Những quan niệm chung. Trong khi phát triển những kỹ năng, thường nhấn mạnh đến việc thúc đẩy cả tính tự chủ và khả năng cùng năng lực đáp ứng sự thay đổi của cá nhân và xã hội. Trong những lý thuyết đang tồn tại về dạy và học, có lẽ sự thích thú thường hướng vào những lý thuyết nào chú trọng nhiều đến những khái niệm về tính tự chủ cá nhân (individual autonomy) (tức là khả năng tự chịu trách nhiệm về tương lai của chính mình), về tinh thần phê phán, năng lực tác động qua lại với môi trường, năng lực ra quyết định và sự sẵn sàng tham gia tích cực vào đời sống xã hội.

Nội dung đang được tăng thêm trọng lượng đối với một số quan niệm về những giá trị phổ biến như quyền con người, dân chủ, khoan dung và đoàn kết, văn hoá hoà bình, quyền của những thế hệ tương lai và sự bảo vệ môi trường. Trong việc lượng giá kết quả của những hệ thống giáo dục, trong sự lựa chọn cho việc làm, kể cả trong sự cạnh tranh vào một vị trí được bầu, ở lĩnh vực chính phủ cũng như ở lĩnh vực tư nhân, những quan niệm đó tỏ ra có tầm quan trọng ngày càng lớn.

Khi phán xét chất lượng của những hệ thống cung cấp GD, những người quan tâm và có trách nhiệm có thể chú trọng ngày càng nhiều đến mức độ hấp thụ những tiềm năng do các công nghệ mới cung cấp. Về lý thuyết, ngày nay có thể thiết kế các hệ thống giáo dục đáp ứng những nhu cầu và đặc trưng của từng loại người sử dụng, trẻ hay già, có chỉ số thông minh cao hay thấp, có hay không có khuyết tật thể chất hoặc xã hội. Ngay cả khi tính đến giá thành, cũng có thể chứng minh rằng tầm quan trọng của nó sẽ giảm đi; vậy vấn đề chính nhất là gì, khi kết hợp thái độ và hành vi con người (gia đình, thầy giáo) trong quá trình GD với những thay đổi tiềm năng do môi trường công nghệ mới mang lại.

Những nguyên tắc: hệ thống giáo dục phải có mục đích gì và cấu trúc như thế nào? Khi môi trường thay đổi với tốc độ nhanh, sứ mạng thiết yếu của GD là giúp những cá nhân tìm thấy cội nguồn của mình, xây dựng những quy chiếu và tăng được sức mạnh để thích ứng với một thế giới có độ phức hợp đang tăng trưởng, đang trong dòng tiến hoá liên tục. Trong kho tàng kiến thức, GD cơ bản cần là những kiến thức chung, vì mọi sự chuyên môn hoá sớm trong GD để “nghề nghiệp hóa” sẽ nhanh chóng trở thành lỗi thời và do đó không thích ứng được với những yêu cầu thay đổi liên tục do tiến bộ kỹ thuật. Nhưng để cho điều này được giáo viên chấp nhận một cách cụ thể và được học sinh và cha mẹ học sịnh tiếp thu, cần xác lập và thừa nhận những chuẩn mực. Việc đưa vào giảng dạy những lượng kiến thức, luồng tư tưởng mới cần làm chậm. dần dần và khối lượng giảng dạy đó cần bao gồm những đơn vị/môđuyn giáo dục và đào tạo rộng. Đồng thời, đối với GD, để tính đến sự đa dạng của kiến thức và văn hoá, nội dung cần phải là liên ngành, phải chú trọng đến việc dạy nhiều ngôn ngữ khác nhau và cung cấp những quy chiếu tích cực đến lịch sử của những nước khác và của những dân tộc thiểu số khác nhau.

Chiến lược dạy – học cần hết sức tích cực, sử dụng những biện pháp khuyến khích và kích thích, cho phép trình bày một loạt quan niệm và cho phép tranh luận về quan điểm, trong khi đồng thời, trọng lượng được đặt thêm vào phát triển kỹ năng. Nhiều năm trước, UNESCO thúc đẩy ý tưởng học cách học: theo những xu hướng gần đây, đặc biệt theo những tiến bộ khoa học – công nghệ, ngày nay chúng ta có thể gắn chặt hơn ý tưởng này. Học cách học bao gồm:

1) Học tập cá nhân hoá, tức là mỗi người học theo nhịp độ của mình (truyền thông đa phương tiện làm cho việc này trở thành hiện thực);

2) Tập trung vào người học (đây là điểm khởi đầu để diễn ra quá trình);

3) Nhấn mạnh vào quá trình hơn là vào sự kiện học tập.

Nhiệm vụ của nhà GD là dạy cho người học cách lựa chọn thông tin, cách xử lý và tổng hợp thông tin, cách đánh giá và phê phán thông tin và cách tìm con đường của bản thân mình trong quá trình giải quyết những thông điệp có tính xung đột và mâu thuẫn. Nhiệm vụ này không mới, nhưng nó trở thành sống còn, ở chỗ nào mà ngày nay trẻ em có thể chỉ bằng những phương tiện đơn giản, mà tiếp cận đến một kho vô tận những thông tin, điều không thể so sánh với những gì trẻ em có thể có được trong thập kỷ trước. Nói tóm lại, GD có thể tạo thuận lợi cho việc tiếp cận dễ dàng đến những cơ sở kiến thức có tính bách khoa toàn thư, nhằm thúc đẩy cách nhìn của bản thân về thế giới và vai trò của bản thân cũng như lộ trình trong xã hội.

Do tiến bộ công nghệ, một ý tưởng khác của UNESCO hôm nay có thể tỏ ra là khả thi: giáo dục suốt đời. Không phải là không tin được rằng, khi việc học tập cá nhân hoá trở thành phổ biến thì cấu trúc của hệ thống giáo dục sẽ trở nên ít cứng nhắc hơn, nghĩa là hệ thống GD gồm bậc một (primary), bậc hai (secondary) và bậc ba (tertiary) và sự phân biệt GD trẻ tuổi/ lớn tuổi có thể phải xem lại, cũng như cần phải xem lại sự phân biệt giữa GD phổ thông và dạy nghề.

Tuy nhiên, có thể dự báo là, khi sự đo lường chất lượng GD được tính đến vừa ở nhà trường, vừa trên kinh nghiệm sống, vừa chú trọng đầy đủ đến hệ thống cung cấp GD không chính quy và phi chính quy, thì những cấu trúc ít cứng nhắc hơn, sự phân chia ít chặt chẽ hơn giữa những nhà giáo dục thực thụ có nghề và những nguồn khác về kiến thức (như: phương tiện truyền thông và thế giới lao động), một quan niệm mềm hơn và mở hơn về tổ chức GD và học tập sẽ chiếm ưu thế.

Tác giả: NGƯT.GS.TS Nguyễn Thị Mỹ Lộc

Nguồn tin: Theo Tạp chí Giáo dục Thủ đô số tháng 1-2/2017

icon-call
Gọi cho SunUni...
icon-messenger
Chat ngay để nhận tư vấn